Cuối triều Lý sang triều Trần, ở vùng đất Chi Lăng lịch sử, một gia đình đồng bào dân tộc, miền núi sinh hạ được một người con gái tài sắc vẹn toàn, từng lập công lớn trong ba lần đại thắng quân xâm lược Nguyên – Mông ở thế kỷ XIII được nhân dân vùng đất Hà Nam văn hiến tôn vinh thờ phụng suốt hơn 700 năm nay. Mãi tới mùa xuân năm Tân Mão (2011) quê hương Xứ Lạng mới được biết. Nhân ngày truyền thống vẻ vang của Phụ nữ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, xin trân trọng giới thiệu thân thế và sự nghiệp của bà.
Xứ Lạng hôm nay.
Trước hết xin nói vắn tắt về một người thầy mà bà và các bạn đồng môn nhất mực tôn kính, đó là Quế Hiên đại sĩ. Thời vua Lý Huệ Tông (1211-1224) triều Lý đã suy vi, quan lại nhũng nhiễu, dân tình đói khổ, nổi lên phản kháng nhiều nơi. Vì chán chường nơi phù hoa, bon chen thế lực, hãm hại lẫn nhau, Quế Hiên đại sĩ người đất Châu Ôn thông minh tài trí, đỗ đạt cao cả văn, cả võ làm quan tới chức Kinh sư Đông dực tướng quân, biết phần mình có ở lại kinh đô cũng không giúp gì được cho dân cho nước nơi triều chính, ông xin cáo quan về quê hương xứ sở tại trang Quang Lang, Châu Ôn, phủ Tràng Khánh (Chi Lăng, Lạng Sơn ngày nay) mở trường dạy học.
Với kiến thức uyên thâm, ông đã dành hết tâm trí, đức độ, tài năng truyền dạy cho học trò. Tiếng lành đồn xa, học trò khắp nơi đến xin theo học rất đông. Dòng họ Hà ở mãi bên Quy Hóa (Tuyên Quang ngày nay) cũng gửi con cháu theo học thày Quế Hiên đại sĩ. Qua thần phả, ngọc phả, các sắc phong của các triều đại tại đình Làng Ngò – Đức Lý, Nhân Lý – Hà Nam và thư tịch cổ còn lưu lại ở Viện Hán Nôm mà chúng ta biết được thân thế sự nghiệp của nữ danh tướng dân tộc Tày sinh thành tại trang Quang Lang, Chi Lăng lịch sử. Chuyện lưu truyền lại rằng: Ở nước ta cuối triều Lý ở trang Quang Lang thuộc Ôn Châu phủ Tràng Khánh (thuộc đất Lạng Sơn ngày nay) có một gia tộc người Tày họ Trần, đời nối đời làm nghề thuốc gia truyền chữa bệnh cho dân, tài cao, đức trọng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người vượt qua hoạn nạn mà không hề vụ lợi đòi hỏi bất cứ thứ gì, nên được nhân dân xa gần rất đỗi kính trọng, tin yêu.
Đến đời thứ tư, anh Trần Công Tế vẫn tiếp tục hành nghề cao quý, mới 18 tuổi anh đã làm sáng danh tổ tiên bằng tài đức của mình và sớm trở thành một danh y. Anh yêu và cưới người con gái nết na, xinh đẹp nhất dòng họ Lý, là cô Lý Thị Hằng, dân tộc Tày người cùng trang Quang Lang vào cuối mùa thu năm Ất Hợi (1215). Năm sau Bính Tý (1216) 2 người sinh hạ người con trai đầu lòng là Trần Hữu Dựng, 2 năm sau Mậu Dần (1218) sinh hạ người con trai thứ 2 là Trần Hữu Phúc, hai anh em đều khôi ngô, giống nhau như 2 giọt nước.
Một sáng mùa thu năm Mậu Dần (1218) ông Trần Công Tế đi vào núi Đông Quỳ (còn gọi là núi Tàn Lọng) để hái thuốc quý và tìm nơi đất tốt để cải táng đặt mộ phần cho cha mình. Từ xa bỗng thấy một cụ già râu tóc trắng như tuyết, da dẻ hồng hào mặt mũi phương phi, tay chống gậy trúc. Theo sau cụ có 2 tiểu đồng, mặc quần áo màu xanh da trời, trên tay mỗi người cầm một bông hoa sen. Ba người thong thả đi đến ngồi nghỉ trên một phiến đá xanh phẳng lỳ rộng bằng chiếc chiếu cạp điều, dưới bóng mát của cây thông đại thụ.
Chính nơi này, mỗi lần lên núi hái thuốc về ông Tế thường ngồi nghỉ tại đây, nhưng chưa bao giờ được gặp cụ già đẹp như tiên ông với 2 tiểu đồng theo hầu đẹp như trong tranh như vậy. Ông Trần Công Tế liền đi tới kính cẩn chào cụ và lễ phép chào 2 tiểu đồng. Cụ già và 2 tiểu đồng đáp lễ, trên gương mặt hiền từ với đôi mắt còn rất tinh tường, miệng nở một nụ cười rất tươi, hỏi “Ông vào núi có việc gì mà đi sớm thế?”. Ông Tế thưa thật ý định của mình. Cụ già điềm đạm nói: “Gia đình nhà ngươi, đời nối đời tích đức, làm phúc cho muôn nhà, nay ta sẽ giúp”. Nói vậy và cụ chỉ cho ông Tế một khu đất bên bờ suối Bạch Trúc thuộc núi Đông Quỳ (Tàn Lọng) và còn dặn kỹ “Phải đặt đúng huyệt mặt hướng về phương Nam, không quá hai năm sau sẽ có tin mừng”. Nói xong, ông lão lấy một bông sen từ tay một tiểu đồng trao cho ông Tế. Ông Tế cảm kích đưa 2 tay đón lấy bông sen, cúi đầu cảm tạ, vừa ngẩng đầu lên thì kỳ lạ thay, không thấy 3 người đâu nữa, họ đã biến mất ngay giữa thanh thiên bạch nhật, chỉ thấy quanh mình ngào ngạt hương hoa sen thơm ngát. Ông Tế cho rằng đó là thần tiên hiện lên trợ giúp, bèn về nhà bàn việc với bà Hằng lo việc tiến hành cải táng, bốc mộ cha, an táng vào nơi cụ già đã dặn.
Từ đó vợ chồng ông ngày thêm khỏe mạnh, tinh thần phấn chấn, ngày nào cũng lên núi vào rừng hái thuốc chữa bệnh cho dân mà không hề thấy mỏi mệt. Vào một đêm thu năm Kỷ Mão (1219) bà Hằng nằm ngủ, mơ thấy mình đi vào núi Đông Quỳ cắt cỏ mã chiên về làm thuốc, thấy một bé gái mặc áo màu hồng, tay cầm bông hoa sen, tung tăng đến trước mặt bà Hằng, cúi đầu xin về làm con… Bà Hằng thấy vậy bèn dò hỏi: “Cháu ở đâu, con cái nhà ai mà đến đây xin làm con?”. Bé gái cung kính thưa: “Cháu ở chốn Hoa Sen, kiếp trước đã được cụ nhà ta cứu chữa khỏi bệnh hiểm nghèo. Nhưng chưa báo đáp công ơn được. Nay thiên đình cho phép xuống làm con mẹ để đền đáp ơn sâu nghĩa trọng…”. Bà Hằng liền đem câu chuyên trong mơ kể lại cùng chồng. Ông Tế chợt nghĩ đến lời cụ già, vui mừng cho là điềm lành, từ đó 2 ông bà càng ra công tích thiện. Rồi bà Hằng mang thai.
Chưa qua 1 năm, ngày 10 tháng 6 năm Canh Thìn (1220) bà Hằng sinh hạ được người con gái hồng hào khỏe mạnh, tiếng khóc chào đời vang vọng cả núi rừng. Mặt hoa, da phấn, mắt phượng, mày ngài, môi đỏ như son. Ông Trần Công Tế và bà Lý Thị Hằng vui mừng khôn xiết. Ông bà nhớ lại cuộc gặp gỡ kỳ lạ trên núi với “ông tiên giáng trần” và giấc mộng đêm thu liền đặt tên cho con gái yêu là Trần Thị Liên Hoa (Liên Hoa là hoa sen, cũng bao hàm cả ý nghĩa là cả hai người đều được đón nhận hoa sen).
Trần Thị Liên Hoa được cha mẹ cho cùng hai anh trai theo học thầy Quế Hiên đại sĩ.
Trong số hàng ngàn học trò của thầy nổi lên ba gương mặt xuất sắc đó là: Trần Thị Liên Hoa, Lý Lâm Thạch và Trương Tự Cường. Lý Lâm Thạch sinh năm Kỷ Mão (1219) hơn Liên Hoa một tuổi. Trương Tự Cường sinh năm Quý Mùi (1223) kém Liên Hoa ba tuổi.
Cả ba trò yêu của thầy đều thông minh, học giỏi, văn võ song toàn không ai sánh kịp. Riêng Trần Thị Liên Hoa không chỉ có thế, không những thông kinh thư, lịch sử, địa lý mà thầy Quế Hiên và các bạn còn phát hiện ở chị thông tuệ khác thường, luận giải được cả sự biến thiên luân chuyển của đất trời trước sự kinh ngạc của mọi người. Bởi vậy thày đặt cho Liên Hoa một biệt danh là “Đô Thiên Chu Tri” (Nghĩa là thấu hiểu được cả việc trên trời).
Ba người trò cưng của đại sĩ lớn lên trong hoàn cảnh đất nước rối ren, nội tình phức tạp, Triều Lý suy vong, Triều Trần lên nắm quyền trị vì đất nước, nhưng thời kỳ đầu chưa thể dẹp yên được nạn giặc giã, cướp bóc nổi lên ở khắp nơi, bọn tham quan ở địa phương lại ra sức hà hiếp, bóc lột dân lành, khiến dân tình lâm vào cảnh đói rét lầm than, lòng dân phẫn uất.
Dốc Sài Hồ tuyến đường chính Quốc lộ 1A cũ nối Xứ Lạng với các tỉnh miền xuôi - Ảnh: T.L.
Trước tình cảnh đó, ba người bàn nhau đứng lên lo việc lớn cứu giúp dân lành ra khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Được thầy Quế Hiên đại sĩ và các bô lão trong vùng ủng hộ, cổ vũ, Lý Lâm Thạch được tôn làm chủ tướng, Trương Tự Cường làm phó tướng. Chủ và phó tướng đồng lòng tôn Trần Thị Liên Hoa làm Đô Thiên tham tán tướng quân. Tuổi trẻ, tài cao, chí lớn, ba vị bí mật tuyển mộ binh sĩ, lập doanh trại, kho lương, đấu trường luyện quân trong rừng sâu trong sự đóng góp, bảo vệ của nhân dân, được tin các vị vì nghĩa cả, trai tráng tụ nghĩa ngày một đông, lực lượng lên tới hàng ngàn người, được huấn đạo, luyện tập võ nghệ tinh thông. Khi lực lượng đã đủ sức lực, tài lực, mùa xuân năm Kỷ Hợi (1239), ba vị dẫn quân đánh tan phủ lỵ Tràng Khánh, sàn bằng doanh trại Ôn Châu, chém đầu hai tên tham quan ô lại tàn ác là Lê Quang Châu và Trần Viết Khải đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Thanh thế và tiếng thơm của ba vị lan tỏa cả vùng núi rừng phía Bắc.
Hơn bảy trăm năm trước, rừng nguyên sinh đại ngàn còn phủ dày trên đất Việt Bắc, lưu lượng nước sông Thương còn rộng mênh mang và sâu thăm thẳm. Theo kế hoạch của Đô Thiên tham tán tướng quân Trần Thị Liên Hoa, Lý Lâm Thạch và Trương Tự Cường thống nhất phương án luyện binh sĩ không chỉ giỏi chiến đấu trên bộ với bộ binh, kỵ binh, tượng binh mà phải giỏi chiến đấu dưới nước. Đội thủy quân với các chiến thuyền độc mộc tinh nhuệ ra đời, len lỏi tác chiến thuần thục trên sông, suối. Tầm nhìn xa quả là hữu ích sau này.
Đầu năm Đinh Tỵ (1257) họa ngoại xâm đã rình rập trên biên giới phía Bắc nước ta. Đế quốc Mông Cổ, một đế chế hùng mạnh nhất thời bấy giờ đã phủ bóng đen trên khắp bầu trời từ Á sang Âu, vó ngựa của chúng đã tung hoành ngang dọc, đánh đâu thắng đó, gây bao thương đau cho các dân tộc. Tướng giỏi là Ngột – Lương - Hợp - Thai chỉ với ba vạn kỵ binh đã đánh chiếm được nước Đại Lý (Vân Nam – Trung Quốc) chỉ trong một tuần lễ đã nhận được lệnh đánh chiếm Đại Việt, lấy Đại Việt làm địa bàn từ phía Nam đánh chiếm nhà Tống. Thành – Cát – Tư - Hãn đã cử sứ giả sang dụ vua Trần đầu hàng. Biết danh tiếng của ba vị anh hùng trẻ tuổi ở đất Ôn Châu – Hà Khuất và Hà Bổng là trại chủ của Trại Quy Hóa (Tuyên Quang) đã vượt núi cao, rừng sâu sang thăm Lý Lâm Thạch, Trần Thị Liên Hoa và Trương Tự Cường.
Sau khi đàm đạo, nắm rõ tình hình, nguy cơ đất nước. Ba vị nhất trí dẫn quân sang Trại Quy Hóa cùng phò vua giúp nước. Hà Khuất, Hà Bổng cùng ba vị xuống phòng tuyến ngã ba sông Bạch Hạc yết kiến vua Trần Thái Tông đang đích thân trực tiếp chỉ huy tại đó. Vua đã từng nghe Hà Khuất, Hà Bổng tấu trình về ba vị anh hùng trẻ tuổi, nay trực tiếp thấy ba người tướng mạo đường hoàng, khí phách hiên ngang bèn phong cho Liên Hoa là Đô Thiên tham tán nhung vụ tướng quân. Lâm Thạch là Thiên Cương Thạch lãnh tướng quân. Tự Cường là Đương diệc anh dũng tướng quân, được cầm quân chiến đấu dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lê Tần (Lê Phụ Trần).
Chờ đợi không thấy đoàn sứ giả trở về (thực ra vua Trần đã tống giam đoàn sứ giả hung hăng hỗn xược). Đầu năm 1258 Ngột – Lương – Hợp – Thai đem ba vạn quân theo lưu vực sông Hồng tiến vào xâm lược nước ta. Ngày 17 tháng 1 năm 1258 địch đã tiến đến phòng tuyến Bạch Hạc (Bình lệ nguyên) bao vây với âm mưu tiên diệt quân chủ lực của ta. Sau một trận quyết chiến, theo mưu kế của Lê Phụ Trần quân ta rút lui về cầu Phù Lỗ, phá sập cầu, lập phòng tuyến phía nam sông Cà Lồ để bảo vệ vua, chặn bước tiến như vũ bão của quân địch. Dựa vào ưu thế binh lực, quân địch lại vượt sông tấn công ta, Liên Hoa, Lâm Thạch, Tự Cường chiến đấu anh dũng, tả xung, hữu đột được tướng Lê Phụ Trần tuyên công tại trận. Nhằm bảo toàn lực lượng, Trần Thái Tông ra lệnh rút về Thăng Long rồi triều đình tạm thời rút khỏi kinh thành, theo dòng sông Hồng về đóng quân vùng Thiên Mạc (Khoái Châu, Hưng Yên).
Quân giặc chiếm được thành Thăng Long, nhưng không tìm đâu ra bóng người và lương thảo. Chỉ sau 9 ngày đóng quân giữa một kinh thành vắng lặng, chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, cướp lương thảo nuôi quân (lấy chiến tranh nuôi chiến tranh) của quân xâm lược bị phá sản. Thời cơ phản công đã đến, ngày 29 tháng 1 năm 1258, quân ta từ Thiên mạc ngược sông Hồng tiến lên mở một cuộc tiến công quyết liệt vào quân địch ở Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng phía bắc cầu Long Biên bây giờ). Quân địch bị đánh bật ra khỏi kinh thành Thăng Long, chúng phải theo đường sông Hồng tháo chạy về phía Tây Bắc. Nhưng mới chạy đến vùng Quy Hóa thì quân dân địa phương, dưới sự chỉ huy của người anh hùng dân tộc thiểu số Hà Bổng, Hà Khuất mai phục sẵn, chặn đánh tơi bời. Bị tổn thất nặng nề, địch hoảng sợ chạy tháo thân về Vân Nam, tàn quân chỉ còn lại không được năm ngàn người, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất.
Sau một thời kỳ hòa hoãn, năm 1285 Hốt Tất Liệt phong con trai Thoát Hoan (Tô Gian) làm Trấn Nam vương đem 50 vạn tinh binh sang xâm lược nước ta một lần nữa. Dưới trướng của y có nhiều tướng lĩnh cao cấp từng tham gia cuộc chinh phục nhà Tống và quen chiến trận miền Nam Trung Quốc.
Dưới sự chỉ huy của tiết chế quốc công Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn quân dân ta đã đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai và lần thứ ba, 2 năm sau 1287 – 1288. Tài năng chỉ huy của 3 vị tướng dân tộc thiểu số trong cuộc kháng chiến Nguyên Mông lần thứ nhất đã đảm bảo vững chắc nên trong cả 2 cuộc kháng chiến chống xâm lược lần 2, lần 3, các vị đều được Hưng Đạo vương giao trọng trách cùng với tướng công Lê Phụ Trần chỉ huy chiến đấu bảo vệ vùng Thiên Mạc, đất khởi nghiệp của nhà Trần và kho lương quốc gia.
Lễ hội đình Ngò (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) năm Tân Mão 2011- Ảnh: Việt Thịnh.
Một lần hành quân đi đánh giặc, đến Ngô Gia trang (Làng Ngò) trời sắp tối bèn cho quân hạ trại. Thấy phong cảnh đẹp, dân tình thuần hậu, hết lòng chăm lo cổ vũ úy lạo tướng sĩ, lại có phủ thiêng thờ phụng các anh hùng “vong thân vị quốc”.
Trước khi lên đường đi đánh giặc, 3 vị tướng dặn lại dân làng rằng: Khi nào hết giặc sẽ về đây sinh sống với bà con. Thực hiện lời hẹn ước với dân, sau đại thắng quân Nguyên Mông lần thứ ba (1258), mùa xuân năm Canh Dần (1290) 3 vị tướng quân tâu với nhà vua xin được cáo lão, rời kinh thành hoa lệ đem gia đình về trang Ngô Gia, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân để sinh sống những năm cuối đời.
Riêng Liên Hoa mải đánh giặc không kịp màng đến chuyện nhân duyên, cho dù cả 2 vua Thái Tông rồi Thánh Tông đều đã có lần ngỏ ý với vị nữ tướng dân tộc lừng danh. Nhưng Liên Hoa đều một mực tâu, xin với vua rằng: Lúc cha mẹ còn sống thì bận việc quân chưa báo hiếu ơn sinh thành được, nay xin được ở vậy gìn giữ mộ phần, giúp anh chị hương khói thờ phụng mẹ cha.
Vua xét thấy ba vị tướng đều là bậc công thần đã có nhiều công lao với nước với dân trong suốt 3 cuộc chiến tranh đánh đuổi quân xâm lược, vì nước quên thân, nay tuổi đã cao nên chấp thuận lời thỉnh cầu và ban thưởng cho mỗi vị 500 lạng vàng, cấp cho dân trang Ngô Gia 10 mẫu ruộng tốt để dựng sinh từ thờ phụng các vị sau này. Phần thưởng vua ban bằng vàng ròng, 3 vị tướng công đem tâm cứu giúp dân nghèo, mở mang đất đai chu cấp cho dân. Khuyên dạy dân chăm chỉ ruộng vườn, nông trang, gây dựng thuần phong mỹ tục cuộc sống của dân ngày càng sung túc yên vui. Ba vị được dân nhất mực tin yêu, quý trọng như cha mẹ.
Mười năm sau, ngày 8 tháng giêng năm Canh Tý (1300), bà Trần Thị Liên Hoa từ nhà ông Lý Lâm Thạch trở về thì đột ngột qua đời, hưởng thọ 80 tuổi. Vua Trần Nhân Tông được tin vô cùng thương xót đã phong tặng mỹ tự cho bà là: “Văn Hiển, võ chiêu, tinh thục thuần nhất. Trần đại vương tham tán nhung vụ tướng quân Đô Thiên Chu trì Đại vương tôn thần”.
Sau khi 3 vị danh tướng qua đời, năm Đinh Mùi (1370) vua Trần Anh Tông sai quân nội giám Nguyễn Trung Tâm và danh sĩ Nguyễn Sĩ Cố đem sắc chỉ về Trang Ngô Gia phong thần và lệnh cho dân hương hỏa phụng thờ 3 vị đến muôn đời. Năm 2001 Đình Ngò được Bộ Văn hóa – TT xếp hạng di tích lịch sử quốc gia.
Hàng năm cứ đến ngày sinh ngày hóa của các danh tướng, dân làng đều tổ chức lễ hội trang trọng, tưng bừng để tri ân tiền nhân. Lễ hội năm nay năm Tân Mão (2011) có thêm một nghi lễ thiêng liêng: Lễ đón các linh vật từ quê cha đất tổ của nữ danh tướng do nhân dân trang Quang Lang, Ôn Châu (xã Quang Lang – Chi Lăng) trang trọng rước về gồm: Đất bờ suối trúc, nước suối trúc, trúc bạch đánh từ rừng bạch trúc. Vậy là hơn 700 năm sau– châu lại về hợp phố.
Bài: tác giả Nguyễn Trường Thanh